Những năm giữa thế kỷ 18, quá trình đô thị hóa- công nghiệp hóa diễn ra ở Vương Quốc Anh và sau đó lan sang phần còn lại của Châu Âu. Một loạt các nhu cầu theo đó nảy sinh: giao thông, nhà cửa, nhiên liệu và các tụ điểm giải trí.
Năm 1854, một phần tám dân số London chết vì dịch tả. Nguồn nước sinh hoạt bẩn là "thủ phạm" gây ra 11.000 cái chết cho người thủ đô. Chính quyền nước này nhận ra, nước sạch quan trọng không kém đường ray xe lửa, căn hộ và nhà hát.
Đây chỉ là sự kiện mở đầu cho lịch sử khủng hoảng nước sạch toàn cầu. Từ năm 1900 đến nay, trên thế giới, cứ mỗi giây lại có 3 người chết vì hạn hán. Và 28% số người còn sống, vẫn đang phải dùng nước bẩn, tức là khoảng 2,1 tỷ người.

Các quốc gia tìm nhiều cách để đối phó với tình trạng này. Từ 2015, thủ đô của Nam Phi có thêm một mốc để ghi nhớ, "Day Zero", ngày "chết" của Cape Town. Chính quyền sẽ cắt nước toàn thành phố, kể cả ngân hàng, bệnh viện, trường học, nhà máy trong một ngày, khi các đập trữ nước của vùng xuống thấp kỷ lục, thường là tháng 4 đến tháng 5.
Trong khi lượng nước tiêu thụ trung bình của thế giới là khoảng 370 lít/người/ngày, chính quyền Cape Town khuyên người dân không nên dùng quá 50 lít và đối phó bằng chính sách truyền thông. "Không nên tắm quá 2 lần mỗi tuần, mỗi lần 2 phút", người đứng đầu thành phố khuyến cáo người dân trong những ngày hè 40 độ C.
Tại châu Á, Hàn Quốc là nước đông dân thứ 27 thế giới, nhưng chỉ đứng thứ 133 về diện tích mặt nước. Công cuộc tự chủ nước sạch không dễ dàng. Năm 2013, Hàn Quốc bắt đầu bằng việc bảo vệ 900 km sông ngòi, với dự án trị giá 18 tỷ đô la Mỹ mang tên "Phục hồi bốn dòng sông". Xử lý và tái chế nước thải và thu nguồn nước mưa được chính phủ nước này coi trọng, do nguồn nước mặt khan hiếm.
Nền kinh tế lớn thứ 11 toàn cầu phải nhập nhẩu 60% nước sinh hoạt mỗi năm, tương đương 42,7 tỷ mét khối.
Việt Nam cũng nằm trong bài toán thiếu nước toàn cầu. Đến năm 2017, chỉ khoảng 50% dân số được dùng nước sạch. Nhưng Hà Nội không cần phải quyết liệt như Hàn Quốc hay Nam Phi. Hà Nội có cách riêng của mình.
Là thủ đô của đất nước có 41.000 km sông ngòi và trữ lượng nước ngầm nhiều thứ 15 thế giới, Hà Nội chọn một giải pháp đơn giản và hiển nhiên: xây nhà máy nước sạch.

Cách sân vận động và nhà hát vắng khán giả của Đan Phượng khoảng 5 km về hướng bắc là dự án nhà máy nước mặt sông Hồng.
Tháng 8 năm 2015, mặt bằng dự án được UBND Thành phố Hà Nội phê duyệt trên 20,5 ha đất nông nghiệp của xã Liên Hồng, do Công ty CP nước mặt sông Hồng làm chủ đầu tư. Nhà máy được đầu tư 3.700 tỷ đồng, dự kiến đến 2018, đạt công suất cấp nước 150.000 m3/ngày đêm và đến 2050 sẽ nâng công suất gấp bốn lần.
Đây là một trong ba đại dự án về Quy hoạch cấp nước cho Thủ đô Hà Nội đến 2030, tầm nhìn đến 2050 của Thủ tướng. Sau ba năm, phần duy nhất được hoàn thành là giải phóng mặt bằng. Trên bản đồ vệ tinh, nhà máy nước giờ vẫn là một khoảng đất trống màu vàng vuông vắn nằm ngay mặt đường liên xã, bao quanh bởi xanh ngắt những cánh đồng hoa màu và cây ăn quả. Hơn một trăm nghìn người, khoảng 64% dân số Đan Phượng, vẫn chưa có nước sạch.
Đại cuộc tìm nước bắt đầu một ngày cuối tháng 10 mưa nhẹ. Chỉ còn một tháng nữa ông Ân sẽ được thu hoạch chín mươi gốc bưởi Diễn đem bán đợt Tết Bính Thân. Ông Ân tiếc tấn quả trị giá cả bốn, năm chục triệu đồng, nên xin "người ta" dền dứ cho đôi chục ngày để bán nốt vụ quả cuối cùng. "Nhưng việc nước, phải đúng hạn, nên họ đâu có cho".
Ông chỉ biết đứng bên thành ao, nhìn những chiếc máy xúc đào đang ầm ì xới tung từng gốc cây trong trang trại của mình. Mấy trăm quả bưởi đã chớm vàng, rụng lốp đốp xuống nền đất ẩm.

Trong cái ngày cuối tháng 10 năm ấy, có hàng trăm hộ dân xã Liên Hồng như ông Ân cũng trở thành những nông dân không ruộng, không vườn. Bờ xôi ruộng mật của họ được quy " đất dự án".
Năm 1997, sau khi xã Liên Hồng thực hiện dồn điền đổi thửa, ông Ân cùng vợ bắt đầu xây đắp từng mét vuông một cho trang trại của mình từ đôi bàn tay trắng.
Ông Ân lặn lội đạp xe ra Viện cây trồng Quốc gia mãi tận Gia Lâm mua được một trăm cây giống đu đủ, mỗi cây giá một nghìn đồng. Hai mươi năm sau, ông vẫn nhớ số xoài mình đã mua để khởi nghiệp: mười bảy cây.
Ông Ân nhớ rất rõ từng mốc thời gian và sự kiện nhỏ nhặt về cái trang trại của mình. "Năm 2001 thay đu đủ bằng bưởi Diễn. Năm 2005 vụ bưởi đầu tiên bán được cả vườn. Năm 2008, mua hai vạn gạch làm tường bao. Đầu năm 2009 lát 50 mét đường bê tông dẫn vào khu đầm, xây lại lều lán, mắc thêm điện. Tháng ba xây chuồng lợn, trăm triệu nữa làm hố biogas, đào giếng, xây bể lọc nước, hệ thông tưới, công trình phụ".
"Ao cá ngày xưa đây", ông Ân nói rồi tay chỉ vào khoảng đất um tùm cỏ lau trước mặt. Ba năm trôi qua ông vẫn nhớ vị trí từng gốc cau, giàn bầu giàn bí.
"Người ta lấy đất của tôi, rồi ba năm chỉ để đấy không làm gì". Ông Ân nhận mình vô lý khi ý kiến nhiều về những thứ đã không phải của mình. Ông tiếc rẻ cánh đồng bát ngát màu mỡ ngày xưa, nhắc lại nhiều lần những cái "giá mà... ".
Trên "ao cá" nhà ông Ân bây giờ, ngoài mấy đống sắt ngổn ngang đã han gỉ, có thêm một cái nhà ngói con cho một người bảo vệ.
Sáng sáng, ông bảo vệ sẽ đun nước, pha chè uống một mình rồi ngồi nhìn ra khu đất trống trước mặt. Thi thoảng thấy người lạ, con chó sủa đôi ba câu, ông sẽ đứng lên đi ra ngoài xem xét rồi lại quay vào. "Người ta sắp xây nhà máy nước sạch ở đây", là toàn bộ thông tin ông biết về hai mươi hecta đất mình đang "bảo vệ".
Giờ ông Ân chỉ còn mảnh vườn năm mét vuông chồng vừa đúng một gốc cau và cây chanh đào. Ông chủ yếu ở nhà bế cháu nội.

Bất chấp dòng thông báo viết tay màu đen: "Công trường đang thi công, cấm vào" trên tường, tầm giữa trưa, sẽ có một người đàn ông cầm xô nhựa và ắc quy điện vào đây kích cá. Ông Tạo là người thôn Hữu Cước, cũng từng có một sào đất trồng hoa huệ và bưởi Diễn chỗ này.
"Ngày xưa cứ tầm tháng hai, tháng ba là chỗ này thơm nức", ông Tạo nhớ lại những đêm trăng sáng cùng những người bạn già, ngồi chõng tre uống trà, đánh cờ tướng trong vườn bưởi nhà ông Ân. "Chân lấm tay bùn mà sống như thần tiên", ông Tạo vợt con cá tép bằng đầu ngón tay, bỏ vào trong xô, nói bằng giọng tiếc rẻ.

Bốn trăm triệu đồng tiền đền bù cho sào bưởi, ông Tạo dành để xây nhà. Sau năm 2015, ở Liên Hồng mọc lên hàng trăm ngôi nhà ống nhiều tầng san sát. Sống trong những ngôi nhà tiền tỷ ấy là những người nông dân không sinh kế. Dưới cái nhìn lạc quan của lãnh đạo địa phương, sự chậm trễ ấy mang đến sức ảnh hưởng rất tích cực. "Người dân lấy tiền đền bù xây nhà to, nên giàu lắm. Có bốn hay sáu cái hố, cá rất nhiều, dân lại ra đấy đánh cá đánh tôm bán, lại làm giàu ở đấy", ông Nguyễn Xuân Tú, Phó chủ tịch HĐND xã Liên Hồng nói.
Theo lời cảnh báo của Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng Nguyễn Hữu Hoàng, chính huyện này sẽ đề xuất thành phố xem xét thay thế chủ đầu tư, nếu chủ đầu tư không đảm bảo tiến độ.
79% vốn của Công ty cổ phần nước mặt sông Hồng thuộc về Công ty CP Tập đoàn Thành Long, đóng trên địa bàn của tỉnh Hưng Yên. Cục thuế địa phương xếp Tập đoàn Thành Long vào nhóm doanh nghiệp "có số nợ tăng cao", nợ thuế đến giữa 2017 khoảng 42 tỷ đồng.
Thành Long cũng là tập đoàn sản xuất và cung cấp toàn bộ phần kết cấu thép 7.000 tấn cho dự án cầu Vàm Cống tại Cần Thơ và Đồng Tháp. Công trình được biết đến với sự cố nứt dầm cầu từ giữa năm 2018. Họ cũng có tên trong danh sách bị UBND thành phố Hà Nội phê bình trong dự án cầu vượt An Dương vì "thiếu nỗ lực, thiếu phối hợp" trong thực hiện.

Một ngày cuối năm 2011, máy móc, xe cộ, giàn khoan bỗng chất đầy ở mảnh đất sau trường mầm non. Huyện Chương Mỹ khởi công nhà máy nước sinh hoạt trị giá 16,8 tỷ đồng ngay tại xã Hoàng Diệu. Cô Tuyến đang dạy dở lớp, cũng háo hức chạy sang xem. Dòng nước từ khoan thử bơm phụt ra xối xả , làm cô Tuyến khi ấy "mừng rơi nước mắt".
Buổi chiều, vẫn hai tay xách xô nhựa sang Ủy ban xã xin nước, nhưng các cô giáo trường mầm non Hoàng Diệu đều hồ hởi. Họ đều nghĩ không mấy nữa, cái cảnh này sẽ kết thúc. Cô Tuyến động viên đồng nghiệp "cố lên nhé, sắp có nước sạch về tận lớp rồi".
Cán bộ xã khi ấy đã quen với hình ảnh cô hiệu trưởng, chiều chiều hết lớp lại ra khu đất xây dựng nhà máy nước tần ngần đứng nhìn một hồi lâu. "Sắp xong chưa các anh nhỉ?". Năm đầu tiên, họ đáp lại câu hỏi của cô "sắp xong rồi", sau đó là "còn lâu nữa".
Cuối năm 2012, dự án hoàn thành, máy xúc, máy khoan đã đi hết, cánh cổng nhà máy vẫn khóa trái im lìm. Nhà máy nước đã xây xong, nhưng huyện vẫn chưa đủ kinh phí lắp ống dẫn về các thôn.
Cô Tuyến vẫn hỏi: "Sắp xong chưa các anh nhỉ?". "Đi hết rồi, hỏi gì nữa", lần này họ trả lời. Cô không hỏi nữa. Hè năm ấy, cô Tuyến về hưu.
Tháng 11 vừa rồi, cô về lại trường nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, vẫn nhắc lại chuyện về cô Mai và những ngày xách xô đi xin nước. Còn nhà máy nước vẫn khóa cửa y nguyên như ngày cô đi.
Trường mầm non Hoàng Diệu bây giờ đã là chuẩn Quốc gia loại I. Trường có nhiều xích đu, cầu trượt, nhiều vườn hoa, đồ chơi, sách vở và các hạ tầng đẹp mắt. Chỉ có một truyền thống bao năm không thay đổi: mua nước đóng bình để uống và nấu ăn. Khoảng 40 bình 20l mỗi ngày. Tổng chi phí cho nước uống của trường, mỗi năm trên dưới 60 triệu đồng.
0 nhận xét:
Post a Comment